Thứ Tư, 7 tháng 3, 2012

Luật sư Vũ Thị Hiên

Luật sư Vũ Thị Hiên tư vấn luật trên báo Dân Trí: "Tôi phải làm gì để lấy lại khoản tiền đã cho vay? "
(Dân trí)- Năm 2010, tôi cho bác chồng tôi vay 2 tỷ mua nhà, có giấy vay nợ và hẹn trả sau một năm. Sau đó bác tôi đột ngột qua đời. Tôi yêu cầu vợ bác trả nợ nhưng bác ấy không đồng ý trả. Tôi làm thế nào để lấy lại khoản tiền đã cho vay? (Hoàng Khánh Toàn; Email: ToanLaoCai@yahooh.com).
Tại Điều 25 Luật hôn nhân và gia đình: "Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong 2 người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình".   Vì bác chồng bạn vay tiền để mua nhà – hiện nhà đất này là di sản thừa kế, mặt khác việc vay này để phục vụ mục đích xây nhà nên dù vợ bác chồng bạn không ký thì đây vẫn được xác định là khoản nợ chung.   Mặt khác, nhà đất này là tài sản chung vợ chồng nên được chi dùng để thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng.  
Theo quy định tại Khoản 1 điều 637 Bộ luật dân sự thì: “Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Như vậy, vợ bác chồng bạn có nghĩa vụ phải thanh toán khoản nợ mà chồng bác đã vay. Trường hợp, nếu bác ấy không chịu thanh toán thì bạn có quyền khởi kiện tại Tòa án nơi có thẩm quyền để yêu cầu bác ấy có nghĩa vụ thanh toán khoản nợ mà chồng bác ấy đã vay.
Luật sư Vũ Thị Hiên
 Địa chỉ: Số 335 Kim Mã - Ba Đình – Hà Nội
Tư vấn tổng đài 04 -1088 phím số 4 -4 hoặc phím 4-5
Điện thoại: 04 3 747 8888 – Fax: 04 3 747 3966
Hot-line: 093 366 8166

Thứ Hai, 20 tháng 2, 2012

Luật sư Trần Thị Thúy Hằng tư vấn luật trên báo Dân Trí: "Tôi phải làm thủ tục gì để sang tên chính chủ ngôi nhà? "

Luật sư Trần Thị Thúy Hằng tư vấn luật trên báo Dân Trí: "Tôi phải làm thủ tục gì để sang tên chính chủ ngôi nhà? "
(Dân Trí) - Bố mẹ tôi chia tay nhau, năm 1995 bố tôi lập gia đình. Năm 2008, tôi mua lại mảnh đất của bố tôi. Đến khi làm thủ tục sang tên sổ đỏ, vợ hai của bố tôi không ký giấy tờ. Tôi phải làm thủ tục gì để sang tên chính chủ ngôi nhà? (Gia Minh, Email: giaminh123@gmail.com).
Theo dữ kiện từ câu hỏi của bạn chúng tôi hiểu mảnh đất mà bạn đang muốn mua lại là mảnh đất của bố bạn được Tòa án chia cho năm 1994 khi ly hôn với mẹ bạn. Năm 1995 bố bạn kết hôn với người khác, theo quy định tại  khoản 1điều 27 Luật Hôn nhân gia đình thì tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung vợ chồng, cụ thể: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận”.
Như vậy mảnh đất này hình thành trong thời kỳ hôn nhân với mẹ bạn, sau khi ly hôn đã được chia cho bố bạn và sau đó bố bạn mới kết hôn với người khác, do đó đây được xác định là tài sản riêng của bố bạn (Tài sản hình thành trước thời kỳ hôn nhân với người vợ thứ hai).
Tuy nhiên bạn không nói rõ năm 2008 khi tách sổ đỏ (theo dữ kiện bạn nêu chúng tôi hiểu là cấp Giấy chứng nhận (sổ đỏ) riêng cho phần đất của mỗi người được chia theo bản án) thì bố bạn làm thủ tục xin cấp sổ như thế nào? Trên Giấy chứng nhận ghi tên một mình bố bạn hay cả bố bạn và người vợ sau.
- Trường hợp nếu Sổ đỏ đứng tên cả hai người thì căn cứ theo quy định tại khoản 1 điều 27 nêu trên thì có nghĩa là bố bạn đã nhập khối tài sản riêng thành tài sản chung của bố bạn và người vợ thứ hai. Như vậy mảnh đất trở thành tài sản chung vợ chồng do đó khi định đoạt (mua bán, chuyển nhượng, tặng cho…) phải được sự đồng ý của cả bố bạn và người vợ sau.
- Trường hợp bố bạn xin cấp Sổ đỏ cho riêng 1 mình căn cứ theo quyết định của Bản án năm 1994 và Cơ quan có thẩm quyền đã cấp sổ đứng tên 1 mình bố bạn: Mặc dù năm 2008 (trong thời kỳ hôn nhân với người vợ sau) bố bạn mới được cấp sổ đỏ nhưng mảnh đất này đã có trước thời kỳ hôn nhân (với người vợ sau) mà bố bạn không có thỏa thuận nhập vào tài sản chung vợ chồng, không có văn bản thỏa thuận cho người vợ sau là đồng sở hữu thì vẫn được xác định là tài sản riêng. Do vậy bố bạn có quyền tự định đoạt mà không cần phải có sự đồng ý của người vợ.
Tuy nhiên khi đi làm thủ tục chuyển nhượng, mua bán… vì trên sổ đỏ ghi nhận năm cấp là 2008 (là trong thời kỳ hôn nhân) và không ghi thời điểm hình thành tài sản cũng như nguồn gốc nên bên thứ ba  (như cơ quan công chứng…) không thể biết và thông thường các cơ quan sẽ căn cứ vào ngày cấp Giấy chứng nhận để xác định tài sản có phải của vợ chồng hay không. Do đó các Cơ quan công chứng không thể làm thủ tục cho bố bạn tự định đoạt một mình được.
Vì vậy để bố bạn có thể làm thủ tục chuyển nhượng mảnh đất mà không cần có ý kiến của người vợ sau (trường hợp không nhập thành tài sản chung vợ chồng), bố bạn có thể xuất trình kèm theo Bản án, Quyết định ly hôn có sự phân chia mảnh đất trên cho bố bạn năm 1994. Hoặc bạn có thể liên hệ với Cơ quan có thẩm quyền đã cấp Giấy chứng nhận để xác định về nguồn gốc mảnh đất và thời điểm hình thành tài sản này của bố bạn để chứng minh đây là tài sản riêng, hình thành trước thời kỳ hôn nhân và không nhập thành tài sản chung vợ chồng.
Luật sư Trần Thị Thúy Hằng
Địa chỉ: Số 335 Kim Mã - Ba Đình - Hà Nội
Tư vấn tổng đài 04 -1088 phím số 4 -4 hoặc phím 4-5
Điện thoại: 04 3 747 8888 – Fax: 04 3 747 3966
Hot-line: 093 366 8166

Thứ Ba, 14 tháng 2, 2012

Luật sư Vũ Hải Lý tư vấn luật trên báo Dân Trí: "Chia tay khi người yêu mang bầu có phạm luật không?"

Luật sư Vũ Hải Lý tư vấn luật trên báo Dân Trí: "Chia tay khi người yêu mang bầu có phạm luật không?"
(Dân trí) - Tôi năm nay 20 tuổi, người yêu tôi 18 tuổi. Chúng tôi mới yêu nhau nhưng đã có quan hệ tình cảm “sâu sắc”. Hiện cô ấy đang có bầu, nếu tôi muốn chia tay vào lúc này có phạm tội không? (Khuất Quang Dương, Email: quangduong11111991@yahoo.com).
Vì quan hệ tình cảm của các bạn là tự nguyện, bạn gái của bạn cũng đã đủ 16 tuổi nên bạn không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.
Hiện nay, nếu bạn gái bạn vẫn giữ thai và sinh đứa trẻ thì sau này khi đã làm thủ tục khai sinh cho trẻ, bạn gái bạn có quyền khởi kiện đến Tòa án Nhân dân nơi đứa trẻ cư trú để yêu cầu Tòa án xác nhận bạn là cha đứa trẻ. Theo khoản 4 điều 27 Bộ luật tố tụng Dân sự 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Căn cứ quyết định của bản án có hiệu lực của Tòa án, bạn phải có trách nhiệm cấp dưỡng đối với người con. Việc đăng ký kết hôn là tự nguyện, không có cá nhân, tổ chức nào có thể ép buộc bạn phải tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn với bạn gái bạn nhưng bạn phải có trách nhiệm đối với người con. Nếu hai bạn đều công nhận là con của mình, không có tranh chấp, không muốn tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn thì hai bạn có thể ra Ủy ban Nhân dân xã, phường nơi bạn gái bạn cư trú để làm thủ tục công nhận cha cho con. Căn cứ quyết định công nhận cha cho con Ủy ban Nhân dân sẽ ghi tên bạn trong Giấy khai sinh của người con.
Luật sư Vũ Hải Lý
Địa chỉ: Số 335 Kim Mã - Ba Đình - Hà Nội
Tư vấn tổng đài 04 -1088 phím số 4 -4 hoặc phím 4-5
Điện thoại: 04 3 747 8888 – Fax: 04 3 747 3966
Hot-line: 093 366 8166

Chủ Nhật, 12 tháng 2, 2012

Luật sư Vũ Hải Lý tư vấn luật trên báo Dân Trí: "Quy định “Lời chứng của Chủ tịch Ủy ban Nhân dân”?"

(Dân trí) – Xin cho biết, lời chứng của Chủ tịch UBND xã được quy định tại văn bản nào? Trân trọng cảm ơn! (Lê Đình Hinh, Email: hinhtpubndtlgmail@.com).
Căn cứ khoản 2 Điều 5 Nghị định 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký quy định về thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký như sau:
“Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp xã) có thẩm quyền và trách nhiệm:
a) Chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt;
b) Chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt.
Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện chứng thực các việc theo quy định tại khoản 2 Điều này và đóng dấu của Ủy ban nhân dân cấp xã”.
Đồng thời Khoản 8 Thông tư 03/2008/TT-BTP ngày 25/8/2008 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký quy định về việc từng bước chuyển giao các hợp đồng, giao dịch cho các tổ chức hành nghề công chứng như sau:
“Luật công chứng và Nghị định số 79 đã phân biệt rõ hai loại hoạt động công chứng và chứng thực, theo đó công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch; còn Phòng Tư pháp cấp huyện, Uỷ ban nhân cấp xã có thẩm quyền chứng thực bản sao giấy tờ từ bản chính, chứng thực chữ ký”.

Theo đó để tạo điều kiện cho Phòng Tư pháp cấp huyện, Uỷ ban nhân dân cấp xã tập trung thực hiện tốt công tác chứng thực bản sao, chữ ký theo quy định của Nghị định số 79, đồng thời từng bước chuyển giao các hợp đồng, giao dịch cho các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện theo đúng tinh thần của Luật công chứng, góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch của cá nhân, tổ chức, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cần thực hiện các biện pháp phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở địa phương; căn cứ vào tình hình phát triển của tổ chức hành nghề công chứng để quyết định giao các hợp đồng, giao dịch cho các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện; trong trường hợp trên địa bàn huyện chưa có tổ chức hành nghề công chứng thì người tham gia hợp đồng, giao dịch được lựa chọn công chứng của tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn khác hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã theo quy định của pháp luật.

Hiện nay trên địa bàn thành phố Hà Nội, theo Quyết định số 5434/QĐ-UBND ngày21/10/2009 của Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội, Công văn số 3504/STP-BTTP ngày 28/9/2011 của Sở Tư pháp thành phố Hà Nội, các Ủy ban Nhân dân xã, phường, thị trấn thuộc địa bàn thành phố Hà Nội chấm dứt việc chứng thực các hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản đồng thời hướng dẫn người dân đến các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố để thực hiện công chứng theo quy định.

Luật sư Vũ Hải Lý
Địa chỉ: Số 335 Kim Mã - Ba Đình - Hà Nội
Tư vấn tổng đài 04 -1088 phím số 4 -4 hoặc phím 4-5
Điện thoại: 04 3 747 8888 – Fax: 04 3 747 3966
Hot-line: 093 366 8166

Thứ Sáu, 10 tháng 2, 2012

Luật sư Vũ Hải Lý tư vấn luật trên báo Dân Trí: "Trưng cầu giám định thương tật ở đâu?"

(Dân trí) – Tôi muốn hỏi việc viết đơn trưng cầu giám định thương tật và làm đơn truy cứu trách nhiệm hình sự thì do cơ quan nào phụ trách và người bị hại có được phép viết đơn không? (Trần Tuấn Vũ, Email: giatiemlong@gmail.com.vn).
Theo khoản 1 Điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về căn cứ khởi tố vụ án hình sự như sau: “Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây:
1. Tố giác của công dân;
2. Tin báo của cơ quan, tổ chức;
3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
4. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm.
5. Người phạm tội tự thú”.
Như vậy, người bị hại có quyền tố cáo và làm đơn đề nghị trưng cầu giám định về tỷ lệ thương tật với cơ quan công an về hành vi vi phạm của người phạm tội. Theo điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều luật như tội cố ý gây thương tích, tội hiếp dâm, tội cưỡng dâm, tội làm nhục người khác, …chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Theo Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự quy định Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển đến. Viện kiểm sát có trách nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
Khoản 2 điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Trong trường hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng không quá hai tháng”.
Như vậy, bạn có thể làm đơn tố cáo đến công an quận, huyện nơi xảy ra hành vi phạm tội để được giải quyết.
Theo Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về trưng cầu giám định như sau:
1. Khi có những vấn đề cần được xác định theo quy định tại khoản 3 Điều này hoặc khi xét thấy cần thiết thì cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định.
2. Quyết định trưng cầu giám định phải nêu rõ yêu cầu giám định vấn đề gì; họ tên người được trưng cầu giám định hoặc tên cơ quan tiến hành giám định; ghi rõ quyền và nghĩa vụ của người giám định quy định tại Điều 60 của Bộ luật này.
3. Bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định:
a) Nguyên nhân chết người, tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động;
b) Tình trạng tâm thần của bị can, bị cáo trong trường hợp có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ;
c) Tình trang tâm thần của người làm chứng hoặc người bị hại trong trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn đối với những tình tiết của vụ án;
d) Tuổi của bị can, bị cáo, người bị hại, nếu việc đó có ý nghĩa đối với vụ án và không có tài liệu khẳng định tuổi của họ hoặc có sự nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó;
đ) Chất độc, chất ma tuý, chất phóng xạ, tiền giả.”
Đồng thời, theo quy định tại Điều 28 Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội năm 2004 quy định về việc nhận trưng cầu giám định như sau:
“1. Tổ chức giám định tư pháp, tổ chức chuyên môn, người giám định tư pháp thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quản lý có trách nhiệm tiếp nhận và thực hiện việc giám định do cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng ở cấp huyện, cấp tỉnh và cấp Trung ương trưng cầu.
2. Tổ chức giám định tư pháp, tổ chức chuyên môn, người giám định tư pháp thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quản lý có trách nhiệm tiếp nhận và thực hiện việc giám định do cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng ở cấp Trung ương trưng cầu và các việc giám định phức tạp do cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng ở cấp huyện, cấp tỉnh trưng cầu”.
 Như vậy, trong vụ án, Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án Tòa án… có quyền ra Quyết định trưng cầu giám định về tỷ lệ thương tật.
Luật sư Vũ Hải Lý
Địa chỉ: Số 335 Kim Mã - Ba Đình - Hà Nội
Tư vấn tổng đài 04 -1088 phím số 4 -4 hoặc phím 4-5
Điện thoại: 04 3 747 8888 – Fax: 04 3 747 3966
Hot-line: 093 366 8166

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2012

Luật sư Vũ Hải Lý tư vấn luật trên báo Dân Trí: "Chia thừa kế khi mẹ không để lại di chúc?"

(Dân trí) - Mẹ tôi mất năm 2002, tài sản để lại gồm: đất ở, đất vườn, đất rau màu và đất trồng lúa. Trong đó, phần đất trồng lúa em út của tôi đang sử dụng. Vậy có thể dùng tất cả tài sản trên để chia thừa kế cho 4 người con của mẹ tôi không? Chân thành cảm ơn! (Nguyễn Thanh Long, Email: nthanhlong17@yahoo.com.vn).
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật được quy định tại ,điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 như sau: “Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Vì mẹ bạn mất năm 2002, bạn không cung cấp ngày tháng mẹ bạn mất nên chúng tôi không tính được cụ thể ngày tháng nào của năm 2012 là hết thời hiệu yêu cầu chia thừa kế.
Theo điểm a khoản 1 Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.
Như vậy, nếu còn thời hiệu yêu cầu chia thừa kế bạn có thể khởi kiện đến Tòa án nơi có bất động sản để được giải quyết đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mẹ bạn. Tài sản thuộc quyền sở hữu của mẹ bạn về nguyên tắc sẽ được chia đều cho 4 người con, chồng, cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, con nuôi, con riêng (nếu có). Những người đang quản lý sử dụng phải bàn giao lại diện tích đang chiếm hữu cho người được tòa án giao.
Trong trường hợp 4 người con không có tranh chấp, bạn có thể liên hệ với Văn phòng, phòng công chứng nơi có bất động sản để làm thủ tục khai nhận và phân chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật.
Luật sư Vũ Hải Lý
Địa chỉ: Số 335 Kim Mã - Ba Đình - Hà Nội
Tư vấn tổng đài 04 -1088 phím số 4 -4 hoặc phím 4-5
Điện thoại: 04 3 747 8888 – Fax: 04 3 747 3966
Hot-line: 093 366 8166

Thứ Hai, 30 tháng 1, 2012

Có được lập hộ di chúc phần di sản cha mẹ để lại?

Có được lập hộ di chúc phần di sản cha mẹ để lại?
(Dân Trí) – Bố mẹ tôi mất cách đây 1 năm, ngôi nhà tôi ở hiện nay do bố mẹ để lại và là nơi thờ cúng tổ tiền (vì tôi là con trưởng). Ông bà nội, ngoại của chúng tôi đều đã mất. Nay tất cả các em tôi muốn làm di chúc cho tôi được không?
(Nguyễn Hoàng Tùng; Emai: TungVIB@gmail.com).

Ảnh minh họa


Trả lời:
Tại điểm a, Khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 (BLDS) quy định: “Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.
Theo bạn trình bày thì hàng thừa kế của bố mẹ bạn chỉ còn 05 người (đó là bạn và bốn người em của bạn). Tại Điều 642 BLDS quy định: “1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác; 2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản; 3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế” .

Theo quy định tại Điều 633 BLDS 2005 thì thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Vì bố mẹ bạn đã mất được 01 năm (một) nên các em bạn vẫn hưởng phần di sản mà bố mẹ bạn để lại theo quy định của pháp luật sau đó định đoạt phần mà họ được hưởng theo nguyện vọng của họ. Tại Điều 646 BLDS quy định: Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.

Tại Khoản 4 Điều 49 Luật Công chứng (LCC) năm 2006 quy định: “Văn bản thoả thuận phân chia di sản đã được công chứng là một trong các căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản cho người được hưởng di sản”.
Theo quy định nêu trên thì các em bạn nếu muốn để lại di chúc cho bạn thì phải tiến hành thủ tục khai nhận di sản thừa kế. Trường hợp đã có văn bản thỏa thuận phân chia thì họ có thể làm di chúc cho bạn phần mà họ được hưởng.

Tuy nhiên, di chúc chỉ có hiệu lực sau khi người lập di chúc chết, do vậy để tránh trường hợp người lập di chúc thay đổi ý chí và mâu thuẫn xẩy ra sau này, tốt nhất bạn cùng bốn em của bạn nên tiến hành đồng thời thủ tục khai nhận di sản thừa kế, phần của người nào thì người đó vẫn nhận sau đó tặng cho lại cho bạn – theo quy định tại Khoản 1 Điều 49 Luật Công chứng: “Những người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc mà trong di chúc không xác định rõ phần di sản được hưởng của từng người thì họ có quyền yêu cầu công chứng văn bản thoả thuận phân chia di sản Trong văn bản thoả thuận phân chia di sản, người được hưởng di sản có thể tặng cho toàn bộ hoặc một phần quyền hưởng di sản của mình cho người thừa kế khác”. Việc tiến hành đồng thời nêu trên, sẽ đảm bảo quyền lợi cho bạn và tránh được những vấn đề có thể xẩy ra như chúng tôi đã phân tích nêu trên.

Luật sư Vũ Thị Hiên
 Địa chỉ: Số 335 Kim Mã - Ba Đình – Hà Nội
Tư vấn tổng đài 04 -1088 phím số 4 -4 hoặc phím 4-5
Điện thoại: 04 3 747 8888 – Fax: 04 3 747 3966
Hot-line: 093 366 8166